Tại sao DMT được gọi là phân tử của tâm linh? Dưới đây là những điều cần biết về chất thức thần mạnh nhất thế giới.
Tại sao DMT được gọi là phân tử của tâm linh?
Rick Strassman là nhà nghiên cứu người Mỹ đầu tiên nhận được sự chấp thuận của chính phủ để nghiên cứu chất gây ảo giác sau lệnh cấm kéo dài hai thập kỷ. Giữa những năm 1990-95, phó giáo sư lâm sàng về tâm thần học này đã tiêm khoảng 400 liều N, N-dimethyvianptamine (DMT) cho gần 60 bệnh nhân tại Trung tâm Nghiên cứu Lâm sàng Tổng quát của Bệnh viện Đại học New Mexico. Những phát hiện này đã thay đổi con đường sự nghiệp của ông sau này.
Mặc dù ban đầu Strassman chỉ giới hạn công việc lâm sàng của mình trong việc ghi lại các tác động sinh lý của DMT, chẳng hạn như nhịp tim và huyết áp, nhưng ông đã không thể phủ nhận những trải nghiệm tâm linh về mặt tôn giáo được những người sử dụng báo cáo. Như ông đã báo cáo trong cuốn sách của mình, DMT: The Spirit Molecule (và trong cả bộ phim tài liệu tiếp theo, mà tôi làm giám đốc âm nhạc và đồng sáng tác bài hát chủ đề), hơn một nửa số tình nguyện viên cho biết đã có tương tác với những thực thể không phải dạng người trong khi trải qua ảnh hưởng của DMT.
Strassman đã đặt ra thuật ngữ “phân tử tâm linh” dựa trên nửa thập kỷ nghiên cứu cũng như bản chất tâm linh rõ ràng của DMT. Những nghiên cứu này được ghi nhận rộng rãi vì làm sống lại việc quan tâm đến chất thức thần trong cả văn hóa đại chúng và nghiên cứu lâm sàng. Trong khi hàng chục triệu đô la đang đổ vào không gian nghiên cứu chất thức thần ngày nay, chúng ta có thể tôn vinh Strassman vì đã hồi sinh lĩnh vực nghiên cứu đang phát triển mạnh mẽ này.
Dược lý DMT
DMT được biết đến nhiều nhất với vai trò là thành phần tác động đến thần kinh của loại “thực vật linh hồn,” ayahuasca. Trong khi việc dùng DMT một mình sẽ dẫn đến một chuyến trip kéo dài từ 5-10 phút – khoảng thời gian mà các tình nguyện viên của Strassman chịu ảnh hưởng sau khi được tiêm – và kết hợp với các loại thực vật cụ thể, chẳng hạn như dây leo Ayahuasca (Banisteriopsis caapi), trải nghiệm này thì kéo dài 4-6 giờ.
Theo truyền thống, ayahuasca có nguồn gốc từ cây bụi P. viridis, mặc dù cũng có nhiều chất thay thế đã được ghi nhận. Tương tự như vậy, nhiều loại cây dây leo có chứa chất alkaloid đóng vai trò như chất ức chế monoamine oxidase (MAOIs), làm cho DMT có trong chất lên men tiêu thụ qua đường miệng và có tác dụng lâu dài. Ví dụ, trong cộng đồng Tukano Colombia, có 6 loại ayahuasca được sử dụng trong các nghi lễ, và mỗi loại được cho là tạo ra các tác dụng khác nhau.
DMT có mặt ở khắp nơi trong tự nhiên. Mọi động vật có vú đều đã được con người thử nghiệm (kể cả con người với nhau), chúng đều sản sinh ra ra một cách nội sinh. Ít nhất 50 loại thực vật có chứa chất này. Cũng như các chất gây ảo giác khác, DMT có liên quan đến serotonin, cũng như melatonin. Vì melatonin được tạo ra bởi tuyến tùng trong não, nên một số suy đoán rằng DMT là một dạng “chìa khóa thần bí”, vì tuyến tùng là mối tương quan vật lý với “con mắt thứ ba” của con người. Trên thực tế, Rene Descartes đã xác định tuyến thần kinh này là “chỗ trú ngụ của tâm linh”.
Các thành phần hoạt tính của ayahuasca lần đầu tiên được phân loại bởi nhà dược học người Đức Louis Lewin vào những năm 1920. Ban đầu, ông phát hiện ra tác dụng thần kinh của hợp chất harmine, mặc dù theo một số nhà nghiên cứu, chẳng hạn như nhà dân tộc học Jonathan Ott, đã mô tả trải nghiệm sử dụng loại chất alkaloid này có cảm giác gần giống với thuốc Valium hơn.
DMT lần đầu tiên được tổng hợp bởi nhà hóa học người Đức Richard Manske vào năm 1931. Phải mất 15 năm, nhà hóa học người Brazil Oswaldo Goncalves de Lima mới phát hiện ra nó là một chất alkaloid có trong tự nhiên trong thực vật. DMT không được dùng ở người cho đến giữa những năm 50, vào khoảng thời gian khi nhà hóa học người Hungary Stephen Szara trở thành nhà nghiên cứu đầu tiên có những nghiên cứu khoa học về tác dụng thần kinh của nó.
Về mặt hóa học, DMT, cũng như 5-MeO-DMT, có thành phần tương tự như psilocin và LSD. Như nhà dược học Richard J Miller đã viết trong cuốn sách của mình, Drugged, là “các chất như LSD, psilocin và DMT, có dùng trong những trường hợp thích hợp, đều có thể tạo ra trải nghiệm ảo giác về mặt định lượng và không thể phân biệt được với nhau”.
Khai mở con mắt thứ ba
Rick Strassman đã vạch ra ranh giới giữa giai thoại văn hóa và dữ liệu khoa học về vấn đề này trong nhiều thập kỷ. Vì tâm linh luôn mang tính chủ quan, bất kể những tác động sinh lý có thể lường trước được, thì việc phân biệt giữa tổng quan và cá nhân vẫn là một thách thức.
Ngoài vai trò là một bác sĩ lâm sàng, Strassman còn là một người theo Thiền Phật giáo lâu năm. Khi bắt đầu nghiên cứu về DMT, ông không thể không nhận thấy những điểm tương đồng trong trải nghiệm thiền định và thức thần. Nghiên cứu này vào đầu những năm 90 đã dẫn đến giả thuyết của ông rằng tuyến tùng là chìa khóa để hiểu về trạng thái cận tử và thần bí. Ông viết,
“Cơ quan nhỏ bé này, là “chỗ trú ngụ của tâm linh” hay “con mắt thứ ba” của người xưa, có thể tạo ra chất DMT hoặc các chất tương tự bằng cách thay đổi cấu tạo hóa học một cách đơn giản của hormon melatonin nổi tiếng trong tuyến tùng, hoặc của serotonin, là một chất hóa học quan trọng trong não bộ. Có lẽ chính DMT, do tuyến tùng tiết ra, đã mở mang tầm mắt của tâm trí đối với các thực tại tâm linh hoặc các vật thể phi vật chất.”
Mối liên hệ giữa thiền và ảo giác đã được nghiên cứu chi tiết. Nhà báo khoa học James Kingsland lưu ý rằng ảo giác và thiền đều làm giảm hoạt động và kết nối khi não đang trong chế độ mặc định – cụ thể là ở phần vỏ não sau (PCC), con quay hồi mã (parahippocampal gyrus) và phần trung gian trước trán. Sự nới lỏng “bản ngã trung tâm” này có thể là bước cơ bản trong các ứng dụng điều trị của psilocybin, iboga, LSD và ayahuasca, là những thực hiện đang được nghiên cứu. Như với Strassman, Kingsland đã nhấn mạnh đến serotonin khi xem xét tác dụng điều trị của những thứ trên.
“Bằng cách mô phỏng sự lan tỏa của serotonin đi kèm với căng thẳng đe dọa tính mạng, chất thức thần dường như “khởi động lại” não bộ, tạo cơ hội để giải phóng những chương trình hấp thụ các hội chứng nghiện, trầm cảm, PTSD và OCD, và thay thế chúng bằng các suy nghĩ và hành vi lành mạnh hơn.”
Sự tương đồng giữa huyền bí học, thiền định và chất thức thần đã lên đến đỉnh điểm vào những năm 1960. Các nhà phê bình nhận thấy rằng các chất thức thần đang “lừa dối” quá trình thiền định lâu dài. Strassman coi cả hai công cụ này giúp thay đổi suy nghĩ và hành vi của bản thân. Một số tình nguyện viên trong các thử nghiệm của Strassman nhận thấy trải nghiệm DMT là một “trải nghiệm khai sáng” mà họ đã mang theo trong nhiều năm sau đó.
Điều này cũng được chứng minh trong “Trải nghiệm Thứ Sáu Tuần Thánh” nổi tiếng, khi các sinh viên môn thần học ở Harvard được tiêm psilocybin vào năm 1962. 25 năm sau, tất cả sinh viên, trừ một người đều đánh giá đây là điểm nhấn trong đời sống tinh thần của họ. Các thử nghiệm của John Hopkins, trong đó psilocybin được sử dụng để điều trị những bệnh nhân bị bệnh hiểm nghèo đang vật lộn với những cơn đau, cho kết quả tương tự: 70% người tham gia đã đánh giá một ngày sử dụng chất này là một trong năm trải nghiệm sâu sắc nhất trong cuộc đời họ, kéo dài cả sau 5 năm sau khi nghiên cứu kết thúc.
Những trải nghiệm cận tử
Một mô-típ phổ biến được ghi chép trong một nghi thức ayahuasca: người nhập môn nằm trên mặt đất khi linh hồn của họ thoát ra khỏi cơ thể và bay trong không khí. Đôi khi việc này xảy ra khi họ nhắm mắt và lạc vũ trụ; còn những lần khác, họ nhìn xuống chằm chằm vào xác thịt của mình (như được mô tả trong ít nhất một bản dịch của Bhagavad Gita) đang nằm trên mặt đất. Dù vậy, “chuyến đi tâm linh” này là một trải nghiệm đặc trưng của những chuyến trip thức thần.
Strassman cũng liên hệ hiện tượng này với tuyến tùng. Theo ông, tuyến này có thể nhìn thấy trong bào thai ở ngày thứ 49, đó là khoảng thời gian của trạng thái giữa các linh hồn trong một số văn bản Phật giáo. Triết lý này, được thể hiện nổi tiếng nhất trong Cuốn sách về cái chết của người Tây Tạng, nói rằng khi thoát khỏi một cơ thể khi chết đi, linh hồn sẽ bay ra một không gian giới hạn (được gọi là Bardo) trước khi nhập vào một cơ thể khác. Strassman tiếp tục:
“Có lẽ sinh lực của một con người đi vào bào thai lúc 49 ngày qua tuyến tùng. Và nó có thể rời khỏi cơ thể, khi chết cũng qua tuyến tùng. Việc đến và đi này sẽ được đánh dấu bằng việc tiết ra chất DMT trong tuyến tùng, thiền định đã nhận thức về những trải nghiệm tuyệt vời này.”
Trong phần mở đầu cho bản dịch của Cuốn sách về cái chết của người Tây Tạng của WY Evans-Wentz, Lama Anagarika Govinda nhận xét rằng “Người nhập môn thống trị cõi vĩnh hằng và có thể nhận thức được bản chất huyễn hoặc của cái chết, thì mới được giải thoát khỏi sự sợ hãi. Ảo giác về cái chết xuất phát từ sự đồng nhất của cá nhân với hình thức tạm thời và chuyển tiếp, cho dù là ở thể chất, tình cảm hay tinh thần, từ đó nảy sinh quan niệm sai lầm rằng tồn tại một bản ngã cá nhân riêng biệt của chính mình, và khi đó nỗi sợ hãi đánh mất nó.”
“Sự mất đi bản ngã” này chính xác là những gì xảy ra trong các nghi thức thức thần. Các vùng não liên quan đến cái tôi của bản thân được lấy ra. Các tình nguyện viên của Strassman báo cáo về cảm giác hòa hợp – cảm giác trở thành một phần của mọi thứ trong vũ trụ – chỉ có thể xảy ra khi những giới hạn của cá nhân được phân định rõ ràng. Tiểu sử bản thân mà chúng ta bám vào chỉ là một phần nhỏ của thực tế. Bằng cách loại bỏ giai thoại khỏi nhận thức của một người, thì trạng thái thức thần sẽ mở ra cho bạn những khả năng mà bạn đã từng không nghĩ đến.
Một lưu ý quan trọng: Strassman xác định rõ ràng rằng việc liên quan DMT với tuyến tùng chỉ là suy đoán. Một khả năng khác là sự dao động của sóng não xảy ra trong cơ thể của một số con mồi nhất định của các loài động vật săn mồi khi đang chết dần. Biện pháp bảo vệ sinh học này được cho là đã phát triển để tạo ra một số mức độ “thoải mái”, chẳng hạn như một con hươu bị sư tử nuốt chửng. Con người chỉ là kẻ săn mồi đỉnh cao trong một thời gian rất ngắn. Trạng thái có vẻ thần bí xảy ra trong khi chết có thể là sự quay ngược trở lại thời đại mà chúng ta có nhiều khả năng bị các loài động vật khác ăn thịt. Ngay cả khi DMT được giải phóng bởi tuyến tùng khi cơ thể chết đi, đặc điểm tiến hóa này có thể chỉ ra một lý do khác cho hiện tượng trên.
Phân tử tâm linh
Khi được hỏi tại sao tin rằng mọi người nên dùng ayahuasca, người sáng lập MAPS Rick Doblin nói rõ.
“Họ đang tìm kiếm những trải nghiệm tâm linh sâu sắc và cảm giác kết nối, cảm giác tràn đầy năng lượng, cảm giác được tiếp xúc với vô thức của chính họ và những tầng đáy sâu hơn trong tâm trí của họ.”
Như tất cả các nhà nghiên cứu về ảo giác đều hiểu, sự thiết lập (môi trường) là những động lực chính của trải nghiệm. Doblin suy đoán rằng lý do rất nhiều tình nguyện viên trong nghiên cứu của Strassman có thể đã nhìn thấy người ngoài hành tinh là do tác động của môi trường. Không giống như những tea3i nghiệm đi đến những khu rừng rậm của Peru để ngồi dự những nghi thức, họ đang ở trong một phòng bệnh viện được bao quanh bởi các bác sĩ lâm sàng. Người ngoài hành tinh họ thấy có thể là đại diện tượng trưng cho môi trường xung quanh họ.
Bất chấp điều đó, Doblin chỉ ra rằng sự nguy hiểm của ayahuasca “chủ yếu là về mặt tâm lý hơn là sinh lý”, như nghiên cứu của Strassman đã chứng minh.
Tương tự đối với Charles Grob, nghiên cứu đầu tiên của Mỹ đã được phê duyệt để nghiên cứu cả ayahuasca và MDMA vào những năm 90. Nghiên cứu của ông về các thành viên của nhóm Uniao do Vegetal, là những người theo nghi thức sử dụng đồ uống có cồn chứa các chất thức thần hai lần một tháng, là “những cá nhân hoạt động rất cao”. Chất thức thần là những chất an toàn nhất về mặt sinh lý học.
Doblin, Grob và Strassman đều đồng ý ở một điểm: nghiện chất thức thần là diều không thể. Những chất này không hoạt động trong cơ thể như thuốc phiện hoặc thuốc chống trầm cảm. Bạn có thể bị nghiện cảm giác trải nghiệm những nghi thức thức thần, điều này có thể có hại cho bạn, nhưng những loại thuốc từ thực vật này không có khả năng gây hại lâu dài – mặc dù, như Doblin đã chỉ ra, khả năng gây hại về tâm lý chắc chắn có thể xảy ra.
DMT đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ (và có thể lâu hơn) trong các nghi lễ trên khắp Nam Mỹ. Ví dụ, người Tukanoan đã tạo ra nghi lễ Yurupari để cho các thiếu niên trở thành thanh niên với ayahuasca. Trải nghiệm tâm linh đại diện cho một nghi thức chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, giống như Bardo di chuyển linh hồn xuyên thời gian.
Như Ott viết, trong khi thuốc ecstacy của Shaman giáo có trong những nghi lễ cổ xưa này, thì ngày nay các chất như DMT và ayahuasca đang đóng một vai trò quan trọng khi dành cho các loại người dùng phổ thông hơn (nhưng không kém phần quan trọng hơn), chẳng hạn như điều trị trầm cảm và nghiện ngập. Trong khi “trải nghiệm xuất thần là thứ tiết lộ cho chúng ta sự hùng vĩ vĩ đại của vũ trụ, còn các kỳ quan giả kim lung linh, dao động thì tạo nên ý thức hàng ngày của chúng ta,” ở thời đại của chúng ta, ông dự đoán rằng “các chất thức thần thế hệ mới như ayahuasca có thể là liều thuốc thích hợp cho nhân loại trên ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới.”
Bất kể nguồn gốc của những góc nhìn về người ngoài hành tinh khi đang bị ảnh hưởng bởi các chất này, Strassman coi sự đồng nhất của DMT và Phật giáo – nói chung là về mặt thức thần và thiền định – là một bước quan trọng tiếp theo trong quá trình tiến hóa của chúng ta. Ông tin rằng sự kết hợp này bổ sung cho nhau một cách hoàn hảo: phương pháp thiền có cấu trúc, có kỷ luật kết hợp với trí tuệ của tình yêu và lòng trắc ẩn mà các nhà tâm lý học đã trải nghiệm sau khi sử dụng thuốc chiết xuất từ thực vật. Một sự kết hợp như vậy chắc chắn sẽ góp phần vào những trải nghiệm “phân tử tâm linh” sâu sắc này.
1cm2 tổng hợp